NGÀNH LÂM NGHIỆP “GHI ĐIỂM”
Giá trị XK gỗ tăng mạnh, dịch vụ môi trường triển khai rộng rãi, dân đã bước đầu gắn bó và sống được nhờ rừng... Đây có phải là những điểm sáng của ngành Lâm nghiệp Việt Nam thời gian qua, thưa Thứ trưởng?
Những năm qua ngành lâm nghiệp tiếp tục phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng, thể hiện tập trung ở những mặt sau: Một là, diện tích rừng tăng nhanh, ổn định; công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng có nhiều tiến bộ, tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật giảm dần. 5 năm qua, bình quân trồng được 226.000 ha/năm, trong đó rừng phòng hộ và đặc dụng 31.000 ha/năm, trồng rừng SX 196.000 ha/năm. Khoanh nuôi tái sinh 461.000 ha/năm, trong đó khoảng 50.000 ha thành rừng/năm. Áp dụng một số giống mới, bước đầu áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong thâm canh rừng trồng, giúp tăng sinh khối tăng trưởng rừng trồng. Vi phạm pháp luật giảm cả về số vụ và mức độ thiệt hại; công tác phòng chống cháy rừng theo phương châm bốn tại chỗ được tăng cường; giảm 80% diện tích rừng bị phá trái pháp luật so với 5 năm trước.
Hai là, giữ sản xuất lâm nghiệp tăng trưởng nhanh, lâm sản hàng hóa ngày càng thích ứng với biến đổi của thị trường thế giới; đời sống người làm nghề rừng được nâng cao. Tốc độ tăng trưởng giá trị SX lâm nghiệp tăng nhanh những năm gần đây (năm 2011 đạt 3,4%, năm 2012 đạt 4,6%, năm 2013 đạt 5,9%). Sản lượng gỗ tăng gấp hơn 2 lần trong vòng 5 năm qua, đạt 15 triệu m3 vào năm 2013. Công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản phát triển mạnh với nhiều thành phần kinh tế tham gia. Đến nay sản phẩm đồ gỗ Việt Nam đã xuất vào trên 100 nước và vùng lãnh thổ với kim ngạch XK tăng hơn 2 lần trong 5 năm, từ 2,8 tỷ USD năm 2009 lên 5,7 tỷ USD năm 2013. Thu nhập đời sống của người dân từng bước được tăng lên, tạo cơ sở vững chắc để người dân gắn bó với rừng.
Ba là, chủ trương xã hội hóa nghề rừng được cụ thể hóa đầy đủ hơn; quản lý nhà nước có tiến bộ chủ yếu bằng công cụ pháp luật, chính sách; nhận thức của xã hội về ngành kinh tế lâm nghiệp nhất quán hơn. Việc giao đất, giao rừng SX cho hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp, các thành phần kinh tế được coi là giải pháp mang tính đột phá; khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào chế biến, kinh doanh lâm sản. Cơ chế, chính sách về lâm nghiệp tiếp tục được hoàn thiện, nổi bật là các Nghị quyết, Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ... đã có tác động lớn, làm chuyển biến căn bản, có tính định hướng trong chiến lược phát triển của ngành lâm nghiệp. Đặc biệt chính sách chi trả dịch vụ môi trường đang trở thành nguồn tài chính quan trọng của ngành lâm nghiệp, tạo nguồn thu cho các hộ gia đình tham gia bảo vệ rừng hàng năm gần 4 triệu ha.
Bốn là, hợp tác quốc tế về lâm nghiệp tiếp tục phát triển cả chiều rộng và chiều sâu theo chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa.
PHÁT TRIỂN NHANH NHƯNG PHẢI BỀN VỮNG
Theo Thứ trưởng, hướng đi của ngành Lâm nghiệp trong thời gian tới như thế nào?
Chắc chắn, trong trung hạn, nhu cầu đồ gỗ thế giới vẫn tăng, tạo cơ hội cho lâm sản duy trì tốc độ tăng trưởng. Trong nước, tình hình kinh tế sẽ có nhiều chuyển biến tích cực. Sản lượng gỗ rừng trồng tiếp tục tăng nhanh, chất lượng được cải thiện hơn, thị trường đồ gỗ nội địa phục hồi, xu hướng tiêu dùng chuyển dịch từ sử dụng gỗ tự nhiên sang gỗ công nghiệp....
Mục tiêu chung đặt ra cho ngành lâm nghiệp là đảm bảo phát triển bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường; từng bước chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh; giá trị SX tăng bình quân hàng năm 5,5 - 6,5%; thu hút mọi thành phần kinh tế tham gia bảo vệ và phát triển rừng, góp phần tạo việc làm, XĐGN, cải thiện sinh kế; bảo vệ môi trường sinh thái rừng, thích ứng với biển đổi khí hậu; gắn chặt chẽ giữa phát triển lâm nghiệp với bảo đảm ANQP và chủ quyền.
Các giải pháp cơ bản để đạt được mục tiêu trên là gì, thưa Thứ trưởng?
Để đạt được mục tiêu đó, có rất nhiều việc phải làm. Ngành lâm nghiệp cần tổ chức tuyên truyền, nâng cao nhận thức xã hội đối với tái cơ cấu lâm nghiệp để thống nhất nhận thức và hành động trong toàn xã hội để giải quyết tốt những vấn đề chủ yếu sau:
1. Về hoàn thiện pháp luật, thể chế, chính sách: sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ phát triển rừng phù hợp với Hiến pháp năm 2013, một số Luật có liên quan mới được Quốc hội thông qua, như: Luật Đất đai năm 2013, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đa dạng sinh học...; các chủ trương chính sách mới của Đảng, nhà nước và yêu cầu thực tiễn; thích ứng cao hơn với những biến đổi của thị trường quốc tế. Thể chế hóa để triển khai việc sắp xếp, phát triển và nâng cao hiệu quả hệ thống tổ chức SX lâm nghiệp, trọng tâm là đối với các công ty lâm nghiệp theo Nghị quyết 30-NQ/TW của Bộ Chính trị. Tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và xây dựng cơ chế, chính sách mới thúc đẩy tái cơ cấu ngành, thúc đẩy ứng dụng giống chất lượng cao; hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn; quản lý rừng bền vững phù hợp với thông lệ quốc tế; khôi phục, phát triển rừng ven biển, rừng phòng hộ đầu nguồn thích ứng với biến đổi khí hậu; tín dụng ưu đãi cho các DN chế biến sâu; hỗ trợ phát triển thị trường; liên kết, hợp tác chuỗi với mô hình "cánh rừng lớn", "liên kết bốn nhà"; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng lâm nghiệp.
2. Nâng cao chất lượng quy hoạch, đảm bảo các định hướng Chiến lược phát triển Lâm nghiệp đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Hoàn thành rà soát, đánh giá lại quy hoạch tổng thể rừng cấp quốc gia và cấp vùng, xác định rõ lâm phận ổn định. Thống nhất giữa quy hoạch rừng trên bản đồ và thực địa, giữa ngành NN-PTNT với Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. UBND cấp tỉnh chỉ đạo đẩy mạnh giao, cho thuê rừng cho tổ chức, cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình, cá nhân, đảm bảo tất cả diện tích rừng có chủ quản lý cụ thể và thực hiện phương thức đồng quản lý rừng. Tạo điều kiện tích tụ đất lâm nghiệp. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng đất lâm nghiệp sang mục đích khác.
3. Triển khai mạnh mẽ hơn các giải pháp xã hội hóa đầu tư trong lâm nghiệp. Tiếp tục mở rộng nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng, phát triển thị trường tín chỉ cacbon để tạo nguồn lực cho bảo vệ và phát triển rừng. Huy động nguồn vốn ODA và FDI từ chính phủ, phi chính phủ và các tổ chức quốc tế lồng ghép với các nguồn vốn trong nước. Thực hiện có trách nhiệm các cam kết kinh tế quốc tế; có biện pháp bảo vệ thị trường nội địa hợp lý, phát triển thị trường XK lâm sản phù hợp với luật pháp quốc tế. Đẩy mạnh công tác tiếp thị thương mại, đàm phán các hiệp định kỹ thuật, mở rộng thị trường quốc tế.
4. Tập trung nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ tái cơ cấu ngành, giảm những nghiên cứu tách rời nhu cầu thực tiễn, thực hiện bằng phương thức đặt hàng là chủ yếu. Ưu tiên các nghiên cứu cải thiện giống cây trồng và thâm canh rừng, công nghệ chế biến sau dăm gỗ và sản phẩm phụ trợ thay thế hàng NK.
5. Khẩn trương sắp xếp, đổi mới hệ thống tổ chức quản lý ngành lâm nghiệp từ Trung ương đến địa phương gọn nhẹ, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ nhất, tình trạng phá rừng, khai thác rừng tự nhiên, sử dụng đất lâm nghiệp trái phép còn diễn ra phức tạp ở một số địa phương; năng suất, chất lượng, giá trị rừng SX thấp. Độ che phủ rừng tăng, nhưng chất lượng và tính đa dạng sinh học của rừng tự nhiên tiếp tục bị suy giảm (80% diện tích rừng tự nhiên là rừng nghèo), giá trị thu nhập trên 1 ha rừng trồng mới đạt khoảng 7-8 triệu đồng/ha/năm, đa số người dân làm nghề rừng còn nghèo. Năng suất rừng trồng thấp so với nhiều nước trong khu vực; chủ yếu là rừng gỗ nhỏ, chưa đáp ứng nhu cầu cơ bản về nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và XK.
Thứ hai, giá trị gia tăng thấp; tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng. Trình độ tay nghề lao động lâm nghiệp thấp, kỹ thuật canh tác lạc hậu, trồng rừng vẫn chủ yếu là quảng canh. Công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ còn nhiều bất cập; công nghiệp phụ trợ, vật tư phục vụ cho SX lâm nghiệp gần như bị bỏ ngỏ, phụ thuộc vào NK. Công nghệ sinh học và công tác tạo giống chưa được ứng dụng trên quy mô rộng…
Thứ ba, quản trị DN, công nghệ chế biến; chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh tranh thấp. Các lâm trường quốc doanh trước đây, sau khi chuyển thành công ty lâm nghiệp vẫn chưa được tự chủ kinh doanh, không được vay vốn SX hoặc không có cơ chế tạo nguồn thu ổn định và gắn trách nhiệm vật chất của chủ rừng với kết quả bảo vệ rừng, chưa phân định rõ SX kinh doanh với việc thực hiện nhiệm vụ công ích; quản lý trên 2 triệu ha đất, nhưng sử dụng kém hiệu quả, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm, vi phạm pháp luật về đất đai diễn biến phức tạp....