• Ảnh 2
  • Ảnh 6
  • Ảnh 18
  • Xe tuyên truyền lưu động tại Đắk Nông
  • Ảnh 1
  • Tuyên truyền viên tuyên truyền về chính sách chi trả DVMTR cho dân bản
  • Học viên nhận chứng chỉ khóa tập huấn kỹ năng viết đề xuất dự án, giám sát, đánh giá
  • Kiểm tra lưu vực chi trả DVMTR tại Hòa Bình
  • Xe máy dùng để đi tuần tra rừng
  • Ảnh 23
  • Ảnh 17
  • Tập huấn quản lý tài chính, kế toán Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng
  • Tập huấn kỹ năng viết đề xuất dự án, giám sát, đánh giá
  • Hội thảo chính sách chi trả DVMTR tại Đắk Nông
  • Kiểm tra diện tích rừng chi trả DVMTR tại Khu Bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng, Đắk Nông
  • Ảnh 11
  • Lễ ký kết Biên bản ghi nhớ với Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)
  • Hội nghị triển khai kế hoạch thực thi chính sách chi trả DVMTR năm 2012
  • Ảnh 22
  • Ảnh 10
  • Chi trả tiền DVMTR tại Điện Biên
  • Khóa tập huấn kỹ năng truyền thông
  • Bức tranh giải nhất cuộc thi vẽ tranh ở Yên Bái
  • Ảnh 9
  • Ảnh 13
  • Ảnh 16
  • Ảnh 7
  • Ảnh 5
  • Ảnh 14
  • Hương ước của thôn, bản về công tác bảo vệ, tuần tra rừng và giấy khen thành tích cá nhân, tập thể
  • Hội nghị chi trả DVMTR khu vực Tây nguyên năm 2013
  • Gắn biển thông tin về rừng được bảo vệ bởi chính sách chi trả DVMTR
  • Biển tuyên truyền chính sách chi trả DVMTR tại Lâm Đồng
  • Chi trả tiền DVMTR tại Điện Biên
  • Ảnh 21
  • Lễ ký kết hợp đồng ủy thác DVMTR với Công ty thủy điện Sơn La
  • Cắm biển tuyên truyền chi trả DVMTR
  • Chi trả tiền DVMTR tại Điện Biên
  • Ảnh 8
  • Ảnh 11
  • Ảnh 19
  • Ảnh 12
  • Bức tranh giải nhất Cuộc thi vẽ tranh ở Lào Cai
  • Chi trả tiền DVMTR tại huyện Mường Tè, Lai Châu
  • Ảnh 3
  • Hội thảo tham vấn ý kiến về Đề án thành lập Quỹ REDD+ Việt Nam
  • Ảnh 20
  • Ảnh 15
  • Chi trả tiền DVMTR tại Gia Lai
  • Hoạt động VNFF

Đối tác

Tin Địa phương

Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Nghệ An mở rộng nguồn thu

19/06/2017

Thực hiện Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ và tình hình thực tế tại địa phương, ngày 19/5/2017, UBND tỉnh đã có Quyết định số 1856/QĐ-UBND về việc ban hành quy định thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nước trực tiếp từ nguồn nước trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Quyết định này quy định rõ đối tượng thí điểm, thời gian thí điểm, mức chi trả và phương thức chi trả, quyền hạn và nghĩa vụ của các đối tượng thực hiện thí điểm…

Hội thảo tham vấn báo cáo kết quả nghiên cứu thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với cơ sở sản xuất công nghiệp

Trong điều kiện nhiều dự án phát triển lâm nghiệp từng cung cấp tài chính quan trọng cho ngành đã dần kết thúc. Không còn kinh phí, các đơn vị trong ngành lâm nghiệp trở nên cực kỳ khó khăn trong công tác bảo vệ và phát triển rừng. Rất may là trong bối cảnh đó, dù ra đời sau nhưng Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng đã là đơn vị chủ lực khai thác nguồn lực tài chính cho công tác bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh. Năng động, linh hoạt để mở rộng nguồn thu, mở rộng đối tác và hợp tác quốc tế là những đánh giá của UBND tỉnh, ngành NN&PTNT đối với hoạt động bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh.

Trong những năm qua, hàng năm có hơn 270 nghìn ha rừng ở các lưu vực trọng điểm của các huyện miền núi Nghệ An được giao khoán bảo vệ rừng từ nguồn chi trả dịch vụ môi trường rừng. Đồng thời, nhiều tổ chức, cá nhân ở các huyện, thị trong tỉnh cũng đã và đang được hưởng lợi từ chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng phục vụ cho công tác bảo vệ rừng. Điều đáng ghi nhận trong chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng không chỉ là nguồn tiền đến tận tay người dân mà còn mang lại hiệu quả thiết thực trên nhiều mặt.

Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Nghệ An làm việc với Nhà máy Bia Sài gòn Sông Lam

Tuy nhiên, sau hơn 5 năm thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, chủ yếu nguồn thu về Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng mới thực hiện được với 3 nhóm đối tượng trong số 5 nhóm đối tượng theo quy định tại Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ, đó là thu các cơ sở sản xuất thuỷ điện và các cơ sở sản xuất nước sạch và du lịch.

Thực tế, trên địa bàn tỉnh có rất nhiều doanh nghiệp sản xuất công nghiệp sử dụng trực tiếp nguồn nước - là đối tượng thuộc phạm vi chi trả dịch vụ môi trường rừng nhưng nhiều năm qua chưa thực hiện thu. Năm 2016, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh được sự giúp đỡ về kỹ thuật của Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Trung ương, sự giúp đỡ về tài chính của Dự án Rừng và Đồng bằng Việt Nam (VFD), Quỹ đã có được báo cáo nghiên cứu khả thi về tình hình sử dụng nước và khả năng thực hiện chi trả dịch vụ môi trường rừng của các doanh nghiệp thuộc phạm vi áp dụng. Đây là cơ sở để UBND tỉnh xem xét quyết định thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp.

Theo đó, các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nước nguồn trong phạm vi thí điểm chi trả dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn tỉnh gồm các cơ sở khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; cơ sở sản xuất, chế biến hàng tiểu thủ công nghiệp; cơ sở sản xuất, chế biến nông sản, thực phẩm; cơ sở sản xuất các sản phẩm công nghiệp; cơ sở sản xuất rượu, bia… trong đó nước là nguyên liệu hoặc là đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất.

Nguyên tắc thực hiện là các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng nước trực tiếp từ nguồn nước cho sản xuất kinh doanh phải chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng  cho các chủ rừng của khu rừng đầu nguồn cung ứng dịch vụ môi trường rừng về điều tiết và duy trì nguồn nước. Tiền DVMTR chi trả ủy thác thông qua Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng để giải ngân cho các chủ rừng của khu rừng cung ứng dịch vụ môi trường rừng. Tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng được hạch toán vào giá thành sản phẩm của các cơ sở sản xuất công nghiệp và không thay thế thuế tài nguyên hoặc các khoản phải nộp khác theo quy định của pháp luật. Mức chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đối với các c�� sở sản xuất công nghiệp là 50 đồng/m3 nước thô. Việc chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng thực hiện theo mỗi kỳ 6 tháng.

Bà Nguyễn Thị Vinh, Phó Giám đốc Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng tỉnh Nghệ An cho biết: “Thu tiền dịch vụ môi trường rừng đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp có sử dụng trực tiếp nguồn nước là thực hiện theo Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ. Các đơn vị sử dụng nguồn nước vào sản xuất có trách nhiệm và nghĩa vụ với xã hội trong công tác bảo vệ rừng. Đơn giá thu tiền sử dụng nước trong sản xuất đã được các nhà khoa học nghiên cứu tính toán đến sự hài hòa, đảm bảo lợi ích giữa các bên. Qua các lần tiếp xúc, hội thảo, các công ty, đơn vị thống nhất thực hiện nghiêm túc theo quy định, đồng thời, cũng đề nghị Quỹ thực hiện có lộ trình để không ảnh hưởng nhiều đến giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Khi thực hiện thành công nội dung này, sẽ tiếp tục mang đến lợi ích gia tăng cho công tác bảo vệ rừng. Ban đầu, nguồn thu này còn nhỏ nhưng là hướng đi mới, lâu dài, ổn định và mang ý nghĩa xã hội cao cả cho công tác bảo vệ rừng”

Nguồn: Bài và ảnh: Báo Lao động Nghệ An