Ngày 24/5, tại Lâm Đồng, Bộ NN-PTNT tổ chức hội nghị Triển khai Đề án bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng bền vững vùng Tây Nguyên giai đoạn 2016 – 2030.
Chấm dứt suy giảm rừng Tây Nguyên sau 45 năm
Theo Thứ trưởng Thường trực Bộ NN-PTNT Hà Công Tuấn: Tây Nguyên (gồm 5 tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông và Lâm Đồng) với tổng diện tích tự nhiên xấp xỉ 5,5 triệu ha, chiếm xấp xỉ 17% diện tích cả nước, trong đó diện tích đất quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp trên 3,2 triệu ha, chiếm xấp xỉ 20% diện tích đất quy hoạch cho phát triển lâm nghiệp cả nước, với dân số khoảng 5,1 triệu người, là địa bàn chiến lược quan trọng cả về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và môi trường cho khu vực các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ, vùng hạ lưu sông Mê Kông. Tây Nguyên được coi là mái nhà Đông Dương, với diện tích rừng chiếm hơn 46% diện tích tự nhiên của vùng.
Rừng Tây Nguyên có vị trí, vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội và các giá trị văn hóa truyền thống, bảo đảm an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường. Rừng được coi là cội nguồn của đời sống tâm linh, là phần sâu xa của con người và cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Mất rừng thì sẽ làm mất đi nền tảng, bản sắc văn hóa Tây Nguyên.
Theo Thứ trưởng Hà Công Tuấn, từ năm 2010 đến 2015, Tây Nguyên là khu vực có tốc độ suy giảm rừng nhanh và nghiêm trọng nhất cả nước, cả về diện tích, chất lượng, tổng diện tích có rừng giảm 312.416 ha, độ che phủ của rừng giảm 5,8%, trữ lượng rừng giảm hơn 25,5 triệu m3, tương ứng giảm 7,8% tổng trữ lượng.
Việc chuyển đổi rừng sang mục đích khác, tình trạng dân di cư tự do, xâm lấn đất trái phép, vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp. Ngoài ra, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết diễn biến cực đoan, tình trạng khô hạn đã có những ảnh hưởng và tác động tiêu cực đến đời sống của người dân và phát triển KT-XH, môi trường.
Trước thực trạng đó, nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng mất rừng, khôi phục, phát triển rừng trong khu vực, Hội nghị này sẽ bàn về các giải pháp khôi phục rừng bền vững vùng Tây Nguyên nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2016-2020 (ngày 20/6/2016 Đăk Lăk), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ đạo Bộ NN-PTNT xây dựng, trình Thủ tướng “Đề án bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng bền vững vùng Tây Nguyên”.
Ngày 18/3/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 297/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng bền vững vùng Tây Nguyên giai đoạn 2016 - 2030”.
Theo đó, Bộ NN-PTNT và các bộ ngành đã kịp thời đề xuất cơ chế chính sách trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng (BV-PTR) cho cả nước nói chung, khu vực Tây Nguyên nói riêng. Các địa phương đã xác định điểm nóng phá rừng cần tập trung triển khai xử lý; kiểm tra giám sát chặt chẽ các cơ sở kinh doanh, chế biến lâm sản; phát hiện, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm theo quy định pháp luật...
Nhờ đó, bước đầu, diện tích rừng toàn khu vực đã tăng trở lại, chấm dứt tình trạng suy giảm diện tích rừng của khu vực trong suốt 45 năm qua (kể từ năm 1975).
Bên cạnh những thành quả bước đầu, Thứ trưởng Hà Công Tuấn cũng đánh giá: Tây Nguyên vẫn là trọng điểm phá rừng, điểm nóng nhất trong bảo vệ rừng của cả nước. Diện tích rừng tự nhiên của khu vực Tây Nguyên vẫn tiếp tục bị suy giảm; tỷ lệ che phủ rừng năm 2018 của 3/5 tỉnh trong khu vực tiếp tục bị giảm so với năm 2017 (Kon Tum, Đăk Lăk, Đăk Nông).
Diện tích rừng do các Cty lâm nghiệp bị giải thể hiện chưa được quản lý, bảo vệ phù hợp. Việc sắp xếp các Cty lâm nghiệp diễn ra chậm, chưa có hiệu quả rõ rệt; còn vướng mắc về đất đai. Một số địa phương chưa kiểm soát chặt chẽ việc chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác.
Khôi phục và phát triển rừng Tây Nguyên
Để triển khai thực hiện Đề án bảo vệ, khôi phục và phát triển bền vững rừng Tây Nguyên theo Quyết định số 297/QĐ-TTg ngày 18/3/2019 của Thủ tướng Chính phủ, Thứ trưởng Hà Công Tuấn đề nghị các bộ, ngành, UBND các tỉnh Tây Nguyên tập trung chỉ đạo điều hành, triển khai kế hoạch.
Cụ thể đối với các tỉnh Tây nguyên, đề nghị các sở NN-PTNT tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho các sở ngành có liên quan gồm:
- Một là thực hiện các nhiệm vụ cần triển khai trong năm 2019 như: Xây dựng kế hoạch thực hiện Đề án, hoàn thành trước 30/6/2019, đồng thời chỉ đạo các sở, ban, ngành, đơn vị trên địa bàn tỉnh tổ chức thực hiện hiệu quả Đề án. Triển khai hiệu quả các dự án BV-PTR trong kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016-2020; rà soát, bố trí vốn thực hiện các dự án BV-PRT. Có kế hoạch, kịch bản, giải pháp cụ thể để hoàn thành các chỉ tiêu nhiệm vụ về BV-PTR, chi trả dịch vụ môi trường rừng, sắp xếp đổi mới Cty lâm nghiệp trên địa bàn; chỉ đạo các chủ rừng hoàn thành việc xây dựng phương án quản lý rừng bền vững.
Bên cạnh đó, tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp trong công tác quản lý, BV-PTR theo đúng tinh thần nội dung Chỉ thị số 13-CT/TW ngày 12/01/2017 của Ban Bí thư và Thông báo số 191/TB-VPCP, ngày 22/7/2016 của Văn phòng Chính phủ. Trong đó tập trung đẩy nhanh tiến độ điều tra, xử lý các vụ án phá rừng trên địa bàn; chủ động, nâng cao năng lực, xử lý kịp thời, hiệu quả công tác phòng chống cháy, chữa cháy để hạn chế thấp nhất số vụ và thiệt hại do cháy rừng; rà soát, đánh giá, kiểm soát chặt chẽ các dự án phát triển KT-XH có tác động đến diện tích, chất lượng rừng, đặc biệt là đối với rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng.
- Hai là thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên trong suốt quá trình thực hiện Đề án. Theo đó, hằng năm, có kế hoạch cụ thể thực hiện Đề án; xây dựng, triển khai thực hiện Dự án bảo vệ, khôi phục và phát triển rừng bền vững giai đoạn 2021 – 2030. Trong đó ưu tiên: các chỉ tiêu nhiệm vụ còn thiếu của Đề án trong giai đoạn 2016 – 2020; nhiệm vụ cấp bách, BV-PTR, phát triển lâm nghiệp công nghệ cao, quản lý rừng cộng đồng, cải thiện sinh kế, phát triển sản phẩm lâm nghiệp; lợi thế của từng địa phương; phát triển lâm nghiệp theo chuỗi giá trị, phát triển vùng nguyên liệu gỗ rừng trong; chế biến, thương mại lâm sản; quản lý rừng bền vững và cấp chứng chỉ rừng.
Bên cạnh đó, phải rà soát, xây dựng, bố trí vốn thực hiện các dự án BV-PTR; lồng nghép, bố trí vốn thực hiện công tác BV-PTR.